Rễ Vi phẫu [hình 13] cắt ngang hình tròn, chia 2 vùng rõ rệt, vùng vỏ chiếm 2/3 bán kính vi phẫu, vùng trung trụ 1/3.Vùng vỏ: Tầng lông hút với nhiều lông hút rõ ở những rễ non, ở rễ già chỉ còn là vết tích tầng lông hút với một vài tế bào móp méo không đều có vách tẩm chất bần. Tầng suberoid [hình 14] 3-4 lớp tế bào hình đa giác, vách mỏng, xếp lộn xộn và khít nhau. Mô mềm vỏ [hình 15] tế bào có vách cellulose, chia làm 2 vùng: mô mềm vỏ ngoài 9-10 lớp tế bào hình tròn hay đa giác, sắp xếp lộn xộn chừa những khuyết nhỏ ở góc giữa các tế bào; mô mềm vỏ trong nhiều lớp tế bào hình bầu dục dẹt, càng vào phía trong tế bào càng dẹt, xếp thành dãy xuyên tâm và vòng đồng tâm. Ống tiết [hình 16] kiểu ly bào, bờ gồm một vòng 5-6 tế bào tiết hình đa giác không đều, móp méo. Tinh thể calci oxalat hình kim ngắn, nhỏ tạo thành đám rải rác trong mô mềm vỏ. Nội bì 1 lớp tế bào gần như hình chữ nhật, có đai caspari rõ; ở rễ già, lớp nội bì thường chia thành từng đoạn 2-4 tế bào, đoạn trên đỉnh bó gỗ là những tế bào có vách cellulose, đoạn trên đỉnh bó libe là những tế bào hóa vách hóa gỗ.Vùng trung trụ [hình 17]: Trụ bì 1 lớp tế bào hình đa giác dẹt, xếp xen kẽ với tế bào nội bì, vách cellulose. Bó libe gỗ [hình 18] cấp 1 tập trung ngay sát dưới lớp trụ bì, gồm 17-19 bó libe và 17-19 bó tiền mộc xếp xen kẽ nhau trên một vòng. Bó libe từng cụm nhỏ hình bầu dục, phân hóa hướng tâm. Bó tiền mộc gồm 2-4 mạch nhỏ không đều, mạch nhỏ ở phía ngoài, mạch to ở phía trong, phân hóa hướng tâm. Mạch hậu mộc rất nhiều chiếm gần hết diện tích mô mềm tủy, to hơn mạch tiền mộc, kích thước không đều nhau, có thể tiếp xúc ngay bên dưới bó tiền mộc hay không; ngay trung tâm của rễ thường có 3 mạch hậu mộc xếp dính vào nhau. Tia tủy 1-2 dải tế bào mô mềm hình đa giác dẹp theo hướng xuyên tâm ở giữa bó libe và bó gỗ, ở rễ non vách tế bào bằng cellulose, ở rễ già vách tế bào hóa gỗ và đôi khi có một vài tế bào trên vách có vân hình lưới. Mô mềm tủy tế bào hình tròn, xếp sát nhau, chia 2 vùng: vùng ngoài quanh các mạch hậu mộc là những tế bào có vách cellulose; vùng trung tâm của rễ là những tế bào có vách hóa gỗ, đôi khi có một vài tế bào đặc biệt [hình 19] trên vách có vân hình lưới.
Thân rễ Vi phẫu [hình 20] cắt ngang hình tròn. Ở đoạn đầu, thân rễ có đường kính nhỏ, vùng vỏ gần bằng trung trụ, nhưng đi về phía gốc lá thân rễ phình to thì phần trung trụ phát triển do sự gia tăng số lượng các bó libe gỗ nên vùng vỏ nhỏ hơn trung trụ.Vùng vỏ [hình 21]: Bần [hình 22] 5-6 lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, xếp thành dãy xuyên tâm, những lớp ngoài thường bị bong rách. Nhu bì tế bào thường rất dẹt. Mô mềm vỏ nhiều lớp tế bào hình gần tròn, xếp chừa những đạo nhỏ. Túi tiết [hình 23] đường kính 125-150 µm, vòng tế bào tiết ở bờ không đều, thường bị móp méo; bao quanh các túi tiết là 3-4 lớp tế bào mô mềm hình đa giác xếp xen kẽ và khít nhau. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong mô mềm, tinh dầu màu vàng.Vùng trung trụ [hình 24]: Mô mềm tủy giống như mô mềm vỏ nhưng tế bào thường chứa rất nhiều tinh bột. Bó libe gỗ [hình 25] cấp 1 rất nhiều, xếp rải rác khắp trong mô mềm tủy, có thể riêng lẻ từng bó với libe ở trên và gỗ ở dưới nhưng thường xếp thành từng cụm gồm 2-nhiều bó; mỗi cụm libe gỗ có libe ở giữa, các mạch gỗ có thể xếp thành nhiều dạng khác nhau quanh libe: hình cung [hình 26], hình vòng, hai phía đối diện [hình 27], ba góc [hình 28]. Cụm mô cứng [hình 29] có thể có trên libe, là những tế bào hình đa giác, không đều, vách mỏng, xếp khít nhau. Túi tiết [hình 30] to hơn túi ở vùng vỏ, đường kính 175-250 µm, bờ túi có 3-4 lớp tế bào rất dẹp xếp chồng lên nhau theo hướng xuyên tâm, những tế bào lớp trong thường không còn rõ hình dạng; bao quanh các túi tiết là 3-4 lớp tế bào mô mềm hình đa giác xếp xen kẽ và khít nhau. Tinh thể calci oxalat có 3 dạng: tinh thể hình cầu gai [hình 31] rải rác khắp cùng, tinh thể hình kim dài 38-50 µm, rời và thường bung tràn [hình 32] khắp vùng mô mềm, tinh thể hình kim dài 62-75 µm kết dính [hình 33] thành bó; tế bào mô mềm chứa tinh thể rời có vách mỏng, tế bào chứa tinh thể kết dính thành bó hình bầu dục to vách dày. Tế bào tiết [hình 34] tinh dầu rải rác trong mô mềm, tinh dầu màu vàng.
Bạn đang xem: Các Loài Hoa Thuộc Họ Araceae
Xem thêm : Loài Hoa đại Diện Cho Cung Thiên Bình
Lá [hình 35]Gân lá [hình 36] hơi lõm ở mặt trên, lồi như hình chữ V ở mặt dưới. Biểu bì tế bào có vách cellulose, mặt ngoài hóa cutin; biểu bì trên tế bào to, lớp cutin mỏng và có răng cưa nhỏ nhọn; biểu bì dưới tế bào nhỏ hơn, lớp cutin dày và có răng cưa tròn to; lỗ khí rải rác trên cả hai lớp biểu bì. Mô dày trên chỉ là từng cụm 2-4 tế bào xếp rải rác, vách ít dày ở góc. Mô mềm có 2 loại: 4-6 lớp mô mềm dưới biểu bì trên là những tế bào nhỏ, hình gần tròn, xếp lỏng lẻo, chứa nhiều hạt lục lạp; vùng mô mềm còn lại có rất nhiều khuyết [hình 37] to không đều nhau, các khuyết này có khuynh hướng nhỏ dần và biến mất khi tiến gần đến biểu bì dưới. Bó libe gỗ [hình 38] cấp 1 kích thước không đều, xếp rải rác trong mô mềm; mỗi bó gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; gỗ gồm 3-8 mạch gỗ không đều, được bao quanh bởi những tế bào mô mềm nhỏ, không đều, hình đa giác, vách cellulose, xếp khít nhau; libe gồm nhiều mạch rây có kích thước to; phía trên gỗ và dưới libe thường có những cụm tế bào mô cứng vách mỏng. Mô dày dưới [hình 39] 2-6 lớp tế bào vách dày rõ ở góc, tạo thành một cung liên tục, những chỗ lõm chỉ có 2 lớp tế bào, nơi lõm thường có một ống tiết nhỏ. Tinh thể calci oxalat có 3 dạng: tinh thể hình cầu gai [hình 40] rải rác khắp cùng; tinh thể hình kim ngắn [hình 41] và nhỏ, dài 37,5 µm, xếp rời rạc trong những tế bào mô mềm vách mỏng, hơi to hơn các tế bào xung quanh, tinh thể dạng này thường bung tràn khắp cùng; tinh thể hình kim dài [hình 42] 112-125 µm, kết dính thành bó trong những tế bào mô mềm vách dày, chỉ có trong vùng mô mềm có khuyết to, hình bầu dục và dài gấp 2-3 lần so với các tế bào mô mềm. Ống tiết [hình 43] thường có dưới lớp mô mềm chứa nhiều lục lạp hay trong chỗ lõm của cung mô dày dưới, đường kính 75 µm, kiểu ly bào với bờ là một vòng 7-8 tế bào không đều.Phiến lá [hình 44]: Biểu bì giống như ở gân giữa nhưng lớp cutin ở biểu bì dưới ít dày hơn. Mô mềm giậu [hình 45] dưới biểu bì trên, 1 lớp tế bào hình chữ nhật ngắn và thuôn. Mô mềm khuyết với nhiều khuyết to, rải rác có ống tiết kiểu ly bào, tinh thể calci oxalat hình cầu gai và hình kim. Trong thịt lá có thể gặp một vài bó libe gỗ của gân phụ cấu tạo tương tự như trong gân giữa.Cuống lá [hình 46]: Vi phẫu cắt ngang lõm ở mặt trên, lồi tròn ở mặt dưới. Biểu bì tương tự như ở gân giữa của lá. Hạ bì liên tục, gồm 1 lớp tế bào nằm xen kẽ biểu bì, tương đối đều, hình gần tròn, to hơn các tế bào mô dày bên dưới. Mô dày góc tạo thành một vòng liên tục, có những chỗ lõm có ống tiết. Mô mềm có khuyết nhỏ và ít hơn so với gân giữa của lá. Túi tiết, tinh thể calci oxalat và bó libe gỗ có đặc điểm giống như ở lá.
Nguồn: https://hoatuoibattu.vn
Danh mục: Ngôn ngữ loài hoa